NÔNG NGHIỆP SINH THÁI VÌ SINH KẾ (REAL) VIỆT NAM

Báo cáo cuối cùng  2013 – 2018

Trung tâm Nâng cao năng lực cộng đồng và Phát triển nông thôn (ICERD)
  1. TỔNG QUAN DỰ ÁN
1. Tên dự án Dự án Nông nghiệp sinh thái vì sinh kế (REAL)
2. Khu vực dự án Bac Giang, Hanoi, Quang Binh, Lao Cai, Ninh Binh and Yen Bai
3. Tổ chức thực hiện Trung tâm Nâng cao năng lực cộng đồng và Phát  triển nông thôn (ICERD)  
4. Tổ chức tài trợ Field Alliance (Thai Education Foundation)
5. Tổng số kinh phí
6. Giai đoạn 2013 – 2018

Mục lục

  1. TỔNG QUAN DỰ ÁN
  2. BỐI CẢNH

III. THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG

  1. ĐIỂM THỰC HIỆN DỰ ÁN

2.1. Xã, Trường học, Trung tâm Học tập Cộng đồng (CLC) đã tham gia và duy trì các hoạt động của REAL bằng sự hỗ trợ của các Nguồn khác nhau

2.2. Dữ liệu tác động về giảm thuốc BVTV, cải tiến quản lý thuốc BVTV

2.3.1. Hệ thống sản xuất kết hợp đa dạng sinh học lúa-thủy sản / Nuôi trồng kết hợp (Lúa-Cá-Vịt) / (Lúa-Cá)

2.3.3. Thâm canh lúa bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu

2.3.4. Nuôi trồng kết hợp “Trồng rau-chăn nuôi” thông qua đệm lót sinh học và làm phân ủ (mô hình Vườn nhà):

2.3.5. Trường học duy trì bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp

2.3.6. Liên kết bảo tồn, sản xuất rau bản địa và kết nối thị trường

2.3.7. Các hoạt động do học sinh thực hiện

2.3.8. Câu lạc bộ, Hợp tác xã được thành lập bởi nông dân sau khi học FFS

2.3.9. Xây dựng Kế hoạch chiến lược của Ủy ban nhân dân xã về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp, giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV

2.4. GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XUYÊN SUỐT “GIỚI, GIẢM NGHÈO, NHÂN QUYỀN”

2.4.1. Phát triển chương trình đào tạo lớp học hiện trường (FFS)

2.4.2. Tổ chức các FFS và hội thảo về các vấn đề xuyên suốt

2.4.2.1. Giới, Nhân quyền

2.4.2.2: Giảm nghèo

2.4.2.3: Ứng phó với biến đổi khí hậu

2.5. Ấn phẩm (tờ rơi, áp phích)

2.5.1. Tờ rơi

2.5.2. Áp phíc / Poster

2.5.3. Phát triền các chương trình đào tạo, tập huấn

2.6. Xây dựng tài liệu nghiên cứu điển hình tại các điểm dự án

2.7. Huy động nguồn nhân lực

2.7.1. Nguồn nhân lực từ các tỉnh mục tiêu hỗ trợ cho Dự án REAL

2.7.2. Các tổ chức liên quan đến dự án REAL

2.8. Giám sát

2.9. Xây dựng quan hệ đối tác với các cơ quan chính phủ để thúc đẩy đánh giá tác động thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp

2.9.1. Sở giáo dục & Đào tạo Hà Nội phối hợp với ICERD tổ chức hội thảo kết nối hợp tác vì an toàn thực phẩm

2.9.2. Sở giáo dục & Đào tạo Hà Nội phối hợp với ICERD tổ chức Đào tạo bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng giảng viên (R-TOT)

2.9.3. Sở giáo dục & Đào tạo Hà Nội phối hợp với TFA và ICERD tổ chức Hội thảo khởi động Dự án xây dựng năng lực cho Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) về giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp (ABD)

2.9.4. Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường Quốc gia – Bộ Y tế phối hợp với TFA và ICERD tổ chức hội thảo dư lượng thuốc BVTV và và bộ dụng cụ kiểm tra nhanh dư lượng thuốc BVTV “Test kits” vì an toàn thực phẩm.

2.10. Họp, Hội thảo, diễn đàn

2.11. Tham gia vận động chính sách và tăng cường quản lý thuốc BVTV

2.12. Hỗ trợ thế hệ nông dân trẻ

  1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, KHUYẾN NGHỊ

II. BỐI CẢNH

Trung tâm Nâng cao năng lực cộng đồng và Phát  triển nông thôn (ICERD) là một Tổ chức dân sự Việt Nam (CSO) hỗ trợ các cộng đồng nông thôn nghèo để quản lý sinh kế của chính họ một cách bền vững. Thành công của chúng tôi được củng cố bởi cách tiếp cận toàn diện để phát triển, từ xây dựng năng lực cơ sở đến vận động quốc gia.

ICERD được thành lập vào tháng 6 năm 2012, dưới sự bảo trợ của Chương trình quốc gia về quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) và tổ chức Liên minh thực địa “the Field Alliance”, (Tổ chức Giáo dục Thái Lan). ICERD đóng vai trò nổi bật trong xây dựng năng lực cho nông nghiệp bền vững ở Việt Nam.

ICERD được đăng ký chính thức là tổ chức thành viên của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (số 353 / QĐ-LHHVN ngày 01 tháng 6 năm 2012).

Với sự hỗ trợ của Liên minh đồng ruộng (Tổ chức giáo dục Thái Lan) Từ năm 2013 ICERD đã hỗ trợ cộng đồng từ sáu tỉnh (Hà Nội, Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Bình, Lào Cai và Yên Bái) để phát triển Chương trình cộng đồng về nông nghiệp sinh thái nông thôn vì sinh kế, thuộc Chương trình khu vực do Sida tài trợ “Hướng tới một môi trường không độc hại ở Đông Nam Á”.

Chương trình đã được sự tham gia của nông dân, học sinh và các tổ chức địa phương nhằm cải thiện sinh kế của cộng đồng nông thôn. Ủy ban nhân dân xã quản lý chương trình và Trung tâm Học tập cộng đồng (CLCs) điều phối thực hiện các hoạt động của chương trình.

ICERD hỗ trợ chương trình Cộng đồng trên cơ sở phối hợp với các cơ quan chính phủ bao gồm: Vụ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục & Đào tạo, Cục Bảo vệ Thực vật (PPD) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường – Bộ Y tế, Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ – Học viên Nông nghiệp Việt Nam. Đồng thời hợp tác với Chương trình giảm thiểu rủi ro do thuốc BVTV/ IPM khu vực châu Á của FAO.

Các hoạt động về Đánh giá tác động thuốc BVTV (PIA) và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học (ABD) được REAL thực hiện và thúc đẩy mở rộng việc áp dụng tại 46 trường học và 111 Trung tâm Học tập cộng đồng của 111 xã của 6 tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Lào Cai , Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái).

Hơn 319 tổ chức liên quan đến REAL: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật – Sở NN & PTNT, Trung tâm Giáo dục Thường xuyên Tỉnh, Ủy ban Nhân dân Huyện, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện, Phòng Nông nghiệp huyện, Ủy ban nhân dân xã, Hội phụ nữ xã, Hội nông dân xã, Đoàn thanh niên xã, Trung tâm Học tập cộng đồng (CLC), Trường học; Cấp quốc gia (Cục Bảo vệ thực vật (PPD) – Bộ NN & PTNT, Vụ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục & Đào tạo, Cục Quản lý môi trường y tế, và Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường Quốc gia – Bộ Y tế, Trung tâm ứng dụng công nghệ môi trường tiên tiến – Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Thái Nguyên; Tổ chức quốc tế / NGO, CSO (Tổ chức Liên minh đồng ruộng (TFA), Chương trình giảm thiểu rủi ro thuốc BVTV / IPM khu vực châu Á của FAO, Liên minh học tập khuyến nông khu vực sông Mekong (MELA), Liên minh học tập nông nghiệp sinh thái ở Đông Nam Á (ALiSEA)… 

III. THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG

  1. ĐIỂM THỰC HIỆN DỰ ÁN

Có 6 tỉnh đã triển khai Dự án REAL từ năm 2013 (Bắc Giang, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Bình, Lào Cai và Yên Bái). Trong số 6 tỉnh này, có 4 tỉnh do REAL tài trợ là Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái và Hà Nội. Hai tỉnh khác là Ninh Bình và Quảng Bình chấm dứt hỗ trợ kể từ năm 2016. Nông dân Lào Cai tham gia dự án đa số là các dân tộc Tay và H’ Mong; Nông dân Yên Bái chủ yếu là dân tộc Mường, Thái; Quảng Bình chịu ảnh hưởng nặng nề của bão và biến đổi khí hậu; Nông dân tỉnh Bắc Giang và ninh Bình tham gia dự án REAL là đa số người kinh. Xem bản đồ.

  1. DỮ LIỆU CHÍNH và số liệu tích lũy từ 2013 – 2018

Với sự hỗ trợ của Liên minh đồng ruộng (Tổ chức giáo dục Thái Lan) Từ năm 2013 ICERD đã hỗ trợ cộng đồng từ sáu tỉnh (Hà Nội, Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Bình, Lào Cai và Yên Bái) để phát triển Chương trình cộng đồng về nông nghiệp sinh thái nông thôn vì sinh kế, thuộc Chương trình khu vực do Sida tài trợ “Hướng tới một môi trường không độc hại ở Đông Nam Á”.

Chương trình đã được sự tham gia của nông dân, học sinh và các tổ chức địa phương nhằm cải thiện sinh kế của cộng đồng nông thôn. Ủy ban nhân dân xã quản lý chương trình và Trung tâm Học tập cộng đồng (CLCs) điều phối thực hiện các hoạt động của chương trình.

ICERD hỗ trợ chương trình ở địa phương trên cơ sở phối hợp với các cơ quan chính phủ bao gồm: Vụ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục & Đào tạo; Cục Bảo vệ Thực vật – Bộ Nông nghiệp và PTNT; Cục Quản lý môi trường y tế – Bộ Y tế, Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường Quốc gia – Bộ Y tế;  Trung tâm ứng dụng công nghệ môi trường tiên tiến – Học viên Nông nghiệp Việt Nam; đồng thời hợp tác với Chương trình khu vực châu Á của FAO về IPM / Giảm thiểu rủi ro do thuốc BVTV.

2.1. Xã, Trường học, Trung tâm Học tập Cộng đồng (CLC) đã tham gia và duy trì các hoạt động của REAL bằng sự hỗ trợ của các Nguồn khác nhau

Từ năm 2013 ICERD đã hỗ trợ cộng đồng của sáu tỉnh (Hà Nội, Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Bình, Lào Cai và Yên Bái) phát triển Chương trình cộng đồng về “Nông nghiệp sinh thái nông thôn vì sinh kế” trong khuôn khổ Chương trình khu vực do Sida tài trợ “Hướng tới một môi trường không độc hại ở Đông Nam Á”.

Các cộng đồng tham gia dự án / Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) / Trường học (2013 – 2018)

Từ năm 2013 đến 2018, các hoạt động về Đánh giá tác động thuốc BVTV (PIA) và bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học (ABD) được REAL thực hiện và thúc đẩy mở rộng phạm vi áp dụng tại 46 trường học và 111 CLC tại 111 xã của 6 tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai, Ninh Bình , Quảng Bình, Yên Bái).

Trong tổng số 111 xã / Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) hiện đang duy trì các hoạt động PIA, ABD, có 23 xã / CLC được REAL hỗ trợ và hiện đang duy trì, còn lại 88 xã / CLC của Hà Nội, bắt đầu triển khai Các hoạt động PIA và ABD từ 2018 băng nguồn kinh phí của Hà Nội, và được Dự án REAL hỗ trợ kỹ thuật.

Trong số 46 trường hiện đang duy trì các hoạt động của PIA, ABD, có 26 trường (bao gồm một trường nội trú và hai trường củaTrung tâm giáo dục thường xuyên huyện) được REAL hỗ trợ và hiện đang duy trì; còn lại 20 trường và trường bán trú thuộc Hà Nội bắt đầu triển khai các hoạt động PIA và ABD kể từ năm 2018 bằng nguồn kinh phí của Hà Nội, và được Dự án REAL hỗ trợ kỹ thuật (Bảng 1a).

Hoạt động đào tạo (2013 – 2018) bằng tất cả các nguồn tài trợ

Kể từ 2013 – 2018 có 11.980 học sinh và nông dân, trong đó 7.671 nữ (64% nữ) đã tham gia các lớp học hiện trường (FFS) về PIA, ABD và đã duy trì bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học. Trong đó 5.791 học sinh (3.207 nữ, 55% nữ); và 6.189 nông dân (4.464 nữ, 72% nữ) (Bảng 1b).

Ngoài ra, học sinh có mối liên kết với phụ huynh và nông dân khác để tác động đến họ về rủi ro do thuốc BVTV và các giải pháp giảm thiểu rủi ro do thuốc BVTV.

Xã, Trường học, Trung tâm Học tập Cộng đồng (CLC) đã tham gia và duy trì các hoạt động của REAL với sự hỗ trợ của các nguồn khác nhau (Xem Bảng 1b dưới đây).

Mỗi nông dân học FFS có thể giúp 2-3 nông dân khác áp dụng theo (PIA / ABD / SRI), do đó, có ít nhất 12.000 nông dân và hơn 10.000 học sinh tham gia PIA / ABD.

Đã đào tạo qua TOT về bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp và đánh giá tác động của thuốc BVTV cho 96 cán bộ cơ quan Nhà nước (Cục Bảo vệ thực vật, Vụ Giáo dục thường xuyên. Những người trực tiếp tham gia dự án REAL do ICERD tổ chức của 4 tỉnh: Bắc Giang, Lào Cai, Ninh Bình và Yên Bái, bao gồm Trung tâm Giáo dục thường xuyên của huyện và Trạm Bảo vệ Thực vật huyện, cán bộ khuyến nông từ ba tỉnh (Lào Cai, Ninh Bình, Yên Bái) và giáo viên (Bảng 1c).

Giáo viên tham gia REAL từ 2013 – 2018 (Bảng 1c)

Tên các cộng đồng thực hiện ABD, PIA từ 2013-2018 (Xem Bảng 1d dưới đây)

2.2. Dữ liệu tác động về giảm thuốc BVTV, cải tiến quản lý thuốc BVTV

Lượng thuốc BVTV hóa học sử dụng trên cây trồng (NĂM 2016 và 2017 tại BAC GIANG) (Xem Bảng 2a dưới đây)

Số liệu trong bảng 2a cho thấy, nông dân vùng dự án ở Bac Giang được tập huấn về bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp, SRI, IPM, và thực hiện đánh giá tác động do thuốc BVTV, việc sử dụng thuốc BVTV của họ đã giảm hắn. Trên Lúa giảm 20%, Rau giảm 94%, Bắp cải giảm 58%, Khoai tây giảm 56%, Xu hào giảm 78% so với trước khi được tập huấn.

Lượng thuốc BVTV hóa học được sử dụng trên các loại cây (NĂM 2016 và 2017 tại YEN BAI) (xem Bảng 2b dưới đây)

Số liệu trong bảng 2b cho thấy, nông dân vùng dự án ở Yên Bái được tập huấn về bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp, SRI, IPM, và thực hiện đánh giá tác động do thuốc BVTV, việc sử dụng thuốc BVTV của họ đã giảm hắn. Trên lúa giảm 85% và trên ngô giảm 91% so với trước khi được tập huấn.

(Xem biểu đồ 1a dưới đây)

Biểu đồ 1a: Thuốc BVTV giảm sau tập huấn một năm tại Yên Bái (tập huấn 2016, khảo sát dữ liệu năm 2017)Lượng thuốc BVTV hóa học sử dụng trên cây trồng (NĂM 2016 và 2017 ở LAO CAI) (Xem Bảng 2c dưới đây)


Số liệu trong bảng 2b cho thấy, nông dân vùng dự án ở Lào Cai được tập huấn về bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp, SRI, IPM, và thực hiện đánh giá tác động do thuốc BVTV, việc sử dụng thuốc BVTV của họ đã giảm hắn. Trên Rau giảm 27%, Lúa giảm 86%, Ngô giảm 92% so với trước khi được tập huấn.

 (Xem biểu đồ 1b dưới đây)

Biểu đồ 1b: Thuốc BVTV giảm sau tập huấn một năm tại Lào Cai (tập huấn 2016, khảo sát dữ liệu năm 2017)

Tham gia quản lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng

Cho đến nay, tổng số 326 bể xi măng đã được xây dựng để chứa bao gói thuốc BVTV sau sử dụng tại 23 xã tham gia Dự án REAL. Ủy ban Nhân dân và Hội Phụ nữ xã đã huy động và khuyến khích nông dân đóng góp tiền để xây dựng các bể thu gom. Ngoài ra, Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên đã tổ chức các chiến dịch “môi trường xanh, sạch”, thu gom các vỏ bao gói thuốc trên đồng ruộng. Các cam kết của cộng đồng về bảo vệ môi trường cũng đã được thực hiện.

Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp

Nhiều mô hình bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng đã được nông dân và học sinh áp dụng sau khi họ tham gia các lớp học hiện trường về bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học, đánh giá tác động của thuốc BVTV, và các khóa tập huấn kỹ thuật (IPM, SRI, đệm lót sinh học, phân ủ…) Được thúc đẩy của các câu lạc bộ phụ nữ, đã có 296 hộ gia đình của 4 tỉnh (Bắc Giang, Quảng Bình, Ninh Bình và Yên Bái) duy trì áp dụng mô hình canh tác kết hợp Lúa-Cá; Có 464 hộ gia đình của sáu tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Bình, Lào Cai, Ninh Bình và Yên Bái) duy trì mô hình sản xuất kết hợp chăn nuôi trồng trọt thông qua việc áp dụng kỹ thuật “đệm lót sinh học” và ủ phân, xây dựng mô hình (Vườn nhà) (Bảng 3). (Xem một số mô hình tiêu biểu dưới đây).

2.3.1. Hệ thống sản xuất kết hợp đa dạng sinh học lúa-thủy sản / Nuôi trồng kết hợp (Lúa-Cá-Vịt) / (Lúa-Cá)

Hiện có 296 hộ của 4 tỉnh (Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Bình và Yên Bái) duy trì nuôi trồng tổng hợp (Lúa-Cá-Vịt) / (Lúa-Cá).

Các bước tiến hành:

> Mở lớp học hiện trường (FFS) và tổ chức các hoạt động bảo tồn và ứng dụng bề vững đa dạng sinh học, đánh giá tác động của thuốc BVTV.

> Tập huấn kỹ thuật về các hệ thống sản xuất kết hợp đa dạng sinh học lúa-thủy sản.

> Hình thành nhóm nông dân / câu lạc bộ

> Ứng dụng thực hành các hệ thống sản xuất kết hợp đa dạng sinh học lúa-thủy sản.

> Chia sẻ kinh nghiệm và tuyên truyền để mở rộng ứng dụng.

Các cuộc khảo sát do ICERD thực hiện cho thấy nông dân ở các điểm thực hiện ở tỉnh Bắc Giang và Quảng Bình thực hành nuôi cá trên ruộng lúa. Dữ liệu cho thấy: Tổng thu nhập trung bình từ nuôi trồng kết hợp lúa-cá-thủy sản là 7,751 đô la Mỹ so với 1,892 đô la Mỹ thu được ở loại hình chỉ sản xuất lúa. Việc ứng dụng nuôi trồng kết hợp sản xuất đa dạng sinh học lúa-cá-thủy sản cho tổng thu nhập tăng trung bình dao động từ 211% – 551% so với chỉ sản xuất lúa gạo (Bảng 3, Bảng 4, Biểu đồ 2)

Năng suất và lợi nhuận từ thu được từ hệ thống sản xuất kết hợp đa dạng sinh học lúa-thủy sản và thực hành chỉ sản xuất lúa (xem Bảng 4 dưới đây).

Biểu đồ 2 cho thấy tổng thu từ hệ thống sản xuất kết hợp đa dạng sinh học lúa-thủy sản và thực hành chỉ sản xuất lúa (US $ / ha) – REAL-2013-2018

2.3.2. Canh tác không làm đất trong hệ thống sản xuất lúa-đậu tương/khoai tây

Bảng dưới đây so sánh (chi phí sản xuất, thu nhập, lợi nhuận) giữa không làm đất và (thực hành truyền thống làm đất) trong sản xuất khoai tây ở Mỹ Thành – Mỹ Đức – Hà Nội 2017: Sản xuất khoai tây giảm chi phí lao động 66%, giảm tổng chi phí sản xuất 22%, thu nhập tăng 21% và tăng lợi nhuận 43% (Bảng 5) (Ảnh 4)

Các bước tiến hành:

> Mở lớp học hiện trường (FFS) và tổ chức các hoạt động bảo tồn và ứng dụng bề vững đa dạng sinh học, đánh giá tác động của thuốc BVTV.

> Tập huấn kỹ thuật về khoai tây / đậu tương không làm đất trong hệ thống canh tác lúa – đậu tương/khoai tây

> Hình thành nhóm nông dân / câu lạc bộ

> Ứng dụng trồng khoai tây, đậu tương không làm đất

> Chia sẻ kinh nghiệm và tuyên truyền để mở rộng ứng dụng

So sánh (về chi phí sản xuất, thu nhập, lợi nhuận) giữa canh tác không làm đất và (thực hành truyền thống với làm đất) trong sản xuất khoai tây ở Mỹ Thành – Mỹ Đức, Hà Nội (xem Bảng 5 bên dưới).

2.3.3. Thâm canh lúa bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu

Một số loại hình thâm canh cây trồng bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu trong hệ thống canh tác lúa được áp dụng ở quy mô lớn tại các cộng đồng tham gia dự án. Ví dụ, không làm đất trong sản xuất lúa – khoai tây / đậu tương, áp dụng thâm canh lúa hệ thống (SRI).

Tại 17 cộng đồng mục tiêu của 6 tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Bình, Lào Cai, Ninh Bình và Yên Bái) đang duy trì các loại thâm canh cây trồng bền vững đối với biến đổi khí hậu trong hệ thống canh tác lúa, tổng diện tích áp dụng trên 1.000 ha, với 3.536 hộ tham gia (Bảng 6a).

> Đối với SRI, lượng khí thải nhà kính giảm do cải thiện thực hành quản lý nước từ giữ nước liên tục trong canh tác lúa truyền thống được thay thế bằng tưới ướt và khô xen kẽ, và do giảm sử dụng hóa chất. Áp dụng SRI, cây lúa khỏe hơn, thân cây cứng, do đó nó tăng khả năng chống chịu với lạnh, gió và sâu bệnh. Trong trường hợp thiếu nước, ruộng SRI khả năng sống sót tốt và thu hoạch cao hơn nhiều so với canh tác truyền thống. Ngoài ra, từ việc tiết kiệm được giống, nông dân có thể dự trữ nó để trồng lại cho các vùng lúa bị thiệt hại do thời tiết khắc nghiệt. So với tập quán truyền thống: ruộng SRI tăng thiên địch 27%, tăng động vật thủy sản 22%, tăng năng suất 13%, tăng hiệu quả kinh tế 15%, giảm thuốc BVTV 88%, giảm giống 57%, giảm 31% nước, giảm phân bón hóa học 21%. (Bảng 6b). Phần lớn nông dân SRI đã ngừng sử dụng hóa chất thuốc trừ sâu.

> Đối với canh tác không làm đất và phủ rơm bằng rơm trong sản xuất khoai tây / đậu tương: Việc sử dụng rơm phủ đất đã khắc phục được tình trạng đốt rơm ngoài đồng gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, sinh khối rơm phủ đất giúp phục hồi hệ sinh thái đất, giảm nhu cầu tưới nước. Việc trộn rơm / sinh khối vào đất trong canh tác không làm đất có tác dụng cô lập carbon trong đất “tức là điều tiết hệ thống lưu trữ năng lượng (ESS)”, cải thiện cấu trúc đất và đưa chất dinh dưỡng trở lại đất do vậy tăng cường độ phì và khả năng giữ nước của đất và giảm xói mòn đất “xem Bảng 5. So sánh về (chi phí sản xuất, thu nhập, lợi nhuận) giữa canh tác không làm đất và (thực hành truyền thống làm đất” trong sản xuất khoai tây ở Mỹ Thành – Mỹ Đức, Hà Nội).

Các bước thực hành áp dụng thâm canh lúa bền vững với biến đổi khí hậu

> Mở lớp học hiện trường (FFS) và tổ chức các hoạt động bảo tồn và ứng dụng bề vững đa dạng sinh học, đánh giá tác động của thuốc BVTV.

> Tổ chức đào tạo kỹ thuật về SRI, IPM / canh tác không làm đất và phủ rơm

> Thành lập nhóm nông dân / câu lạc bộ

> Thực hành các loại hình thâm canh lúa bền vững với biến đổi khí hậu

> Chia sẻ kinh nghiệm và tuyên truyền để mở rộng ứng dụng

Diện tích và hộ nông dân tham gia thâm canh lúa bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu (xem Bảng 6a dưới đây)

Dữ liệu tác động của thâm canh lúa bền vững & ứng phó với biến đổi khí hậu (xem Bảng 6b dưới đây)

2.3.4. Nuôi trồng kết hợp “Trồng rau-chăn nuôi” thông qua đệm lót sinh học và làm phân ủ (mô hình Vườn nhà):

“Vườn nhà”. Khuyến khích mỗi hộ trồng đa dạng các loại rau, cây thuốc… không dùng hóa chất để cung cấp nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và an toàn cho bữa ăn hàng ngày của gia đình, sử dụng cây thuốc để giảm bớt phụ thuốc vào chất kháng sinh.

Hiện nay, loại hình nuôi lợn, gà quy mô nhỏ vẫn được nhiều hộ gia đình duy trì để phục vụ nhu cầu dinh dưỡng của gia đình và tạo thu nhập. Tuy nhiên, chuồng nuôi thường gần nhà nên gây ô nhiễm. Đệm lót sinh học là một hỗn hợp chế phẩm sinh học lên men với sinh khối (mùn cưa, trấu…) và phủ lên nền chuồng nuôi. Đệm lót sinh học thúc đẩy quả trình phân hủy phân, khử mùi hôi và khí độc trong chuồng. Tàn dư đệm lót sinh học được sử dụng để làm phân ủ thay thế cho phân hóa học sử dụng trong “Vườn nhà”.

Các bước tiến hành:

> Mở lớp học hiện trường (FFS) và tổ chức các hoạt động bảo tồn và ứng dụng bề vững đa dạng sinh học, đánh giá tác động của thuốc BVTV, ứng phó với biến đổi khí hậu.

> Hình thành nhóm nông dân / Câu lạc bộ

> Tập huấn kỹ thuật về đệm lót sinh học, sản xuất phân ủ/ hữu cơ, đa dạng rau cung cấp dinh dưỡng để cải thiện sức khỏe.

> Thực hành nuôi trồng kết hợp “Trồng rau – Chăn nuôi” thông qua đệm lót sinh học, làm phân ủ/hữu cơ (Vườn nhà)

> Chia sẻ kinh nghiệm và tuyên truyền để mở rộng ứng dụng

Đã có 464 hộ của 23 xã thuộc 6 tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái) áp dụng sáng kiến này (Xem Bảng 3: Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp).

Đệm lót sinh học thúc đẩy nhanh quá trình phân hủy tàn dư chăn nuôi, khử mùi hôi thối và khí độc trong chuồng. Giảm một số bệnh gia cầm, giảm công lao động để vệ sinh (70%) và do đó giảm chi phí đầu vào sản xuất, tận dụng tàn dư đệm lót sinh học để làm phân bón hữu cơ thay thế cho phân bón hóa học sử dụng trong “Vườn nhà”.

Rau sản xuất tại “vườn nhà” không sử dụng thuốc hóa học, không bón đạm hoặc giảm trên 80% phân bón hóa học. Ngoài việc cung cấp nhiều loại rau an toàn cho bữa ăn hàng ngày của gia đình, các sản phẩm “Vườn nhà” còn được cung cấp cho các chợ rau an toàn địa phương, nhà hàng, nhà trẻ và nhân viên của các tổ chức, văn phòng địa phương.

Chẳng hạn, tại xã Xuân An – Bắc Giang, 18 hộ gia đình có hợp đồng bán sản phẩm rau cho các nhà hàng và cửa hàng rau an toàn. Tại Nghĩa Lộ – Yên Bái, có 2 câu lạc bộ cung cấp rau cho nhân viên của các tổ chức và văn phòng trong huyện, và đặc biệt là cung cấp rau thường xuyên cho các trường mẫu giáo.

2.3.5. Trường học duy trì bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp

Tại 26 trường của 6 tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái), học sinh đã tạo ra vườn dược liệu để học, có 5.791 học sinh tham gia, trong đó có 3.207 nữ (55% nữ) để tìm hiểu về công dụng của các loại thảo dược thay thế cho thuốc. Học sinh cũng trồng vườn thảo dược tại nhà (Ảnh 7, Ảnh 8).

Tại trường nội trú ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai có 150 học sinh tham gia trồng nhiều loại rau bản địa và chăn nuôi để phục vụ bữa ăn hàng ngày ở trường và bán để mua sách và tài liệu học tập. Học sinh đã học cách sản xuất và sử dụng thuốc trừ sâu thảo mọc thay thế cho thuốc trừ sâu hóa học trên rau.

2.3.6. Liên kết bảo tồn, sản xuất rau bản địa và kết nối thị trường

Có 2 hợp tác xã (HTX Ta Chai và HTX Na Hối) – Bắc Hà – Lào Cai, thành viên là các dân tộc thiểu số H ‘Mong, HTX đã duy trì bảo tồn và sản xuất rau bản địa và tiếp cận thị trường. Hợp tác xã Ta Chai thu được gần 100 tấn rau bản địa mỗi năm, số tiền bán ra tương đương khoảng 51.000 USD / năm. Hợp tác xã Na Hội đã bán gần 150 tấn rau bản địa thu được số tiền tương đương khoảng 81.000 USD / năm (bảng 7). Rau được bán tại nhiều chợ địa phương và siêu thị ở Bắc Hà, Lào-Cai, và hầu hết là tại thành phố Hà Nội.

Các bước tiến hành

> Mở lớp học hiện trường (FFS) và tổ chức các hoạt động bảo tồn và ứng dụng bề vững đa dạng sinh học, đánh giá tác động của thuốc BVTV.

> Hình thành nhóm nông dân / Câu lạc bộ

> Tập huấn kỹ thuật về bảo tồn và sản xuất rau bản địa bao gồm cả sơ chế, tập huấn về đệm lót sinh học và làm phân ủ/hữu cơ, sản xuất thuốc thảo mộc, tiếp cận thị trường.

> Tiến hành bảo tồn và sản xuất rau bản địa, kết nối với thị trường.

> Chia sẻ kinh nghiệm và tuyên truyền để mở rộng ứng dụng

Hợp tác bảo tồn và sản xuất rau bản địa và tiếp cận thị trường ở Lào Cai (Xem Bảng 7 dưới đây)

HTX Ta Chai có 7 ha sản xuất rau bản địa, mỗi năm thu hoạch và bán được 97,110 Kg, tương đương 50,831 USD/năm. 

HTX Na Hối có 11 ha sản xuất rau bản địa, mỗi năm thu hoạch và bán được 149,610 Kg tương đương 81,118 USD/năm

2.3.7. Các hoạt động do học sinh thực hiện

Từ những kiến thức, kỹ năng được đào tạo về bảo tồn và ứng dụng đa dạng sinh học nông nghiệp (ABD), rủi ro do thuốc BVTV và thực hiện “đánh giá tác động của thuốc BVTV (PIA), học sinh của các tham gia dự án đã tổ chức một số hoạt động như:

Học sinh trình bày với chính quyền xã, Hội phụ nữ, Hội nông dân về kết quả khảo sát tác động của thuốc BVTV (PIA) và hiện trạng đa dạng sinh học nông nghiệp (ADB); chia sẻ kiến thức về ABD, PIA cho phụ huynh và các thành viên gia đình, khuyến khích cha mẹ chuyển đổi sản xuất cây trồng theo hướng thân thiện với môi trường; tạo ra vườn cây thuốc ở trường để học, tham gia trồng “Vườn nhà” để bảo tồn, học tập và cung cấp rau an toàn cho bữa ăn hàng ngày của gia đình; tổ chức các sự kiện môi trường để nâng cao nhận thức cộng đồng về tác động của thuốc BVTV đối với sức khỏe, gây ô nhiễm môi trường nông thôn và khởi động hành động giảm thiểu rủi ro thuốc BVTV và thúc đẩy bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học.

Từ 2013 – 2018 đã có 20 trường học tại 6 tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Lào Cai, Quảng Bình, Yên Bái) tổ chức ngày môi trường xanh, với tổng số 4.142 người tham gia, trong đó có 2.223 phụ nữ (54% nữ), bao gồm Nông dân, Học sinh, Giáo viên, Lãnh đạo xã và các tổ chức xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên). Hơn 10.000 cây đã được trồng (Bảng 8).

Học sinh và Đoàn Thanh niên tổ chức các sự kiện môi trường (Xem Bảng 8 dưới đây)

2.3.8. Câu lạc bộ, Hợp tác xã được thành lập bởi nông dân sau khi học FFS

Sau khi kết thúc lớp học hiện trường (FFS) với mong muốn hợp tác để phát triển sản xuất, các nhóm phụ nữ quyết định duy trì động lực được tạo ra từ FFS bằng cách tổ chức thành Câu lạc bộ hoặc hợp tác xã. Câu lạc bộ tổ chức các hoạt động “nông dân đào tạo nông dân”, liên kết nông dân với nhau và duy trì thử nghiệm đồng ruộng và đổi mới cũng như chia sẻ kiến thức và kỹ năng giữa cộng đồng. Các chủ đề được triển khai cũng khác nhau trong mỗi Câu lạc bộ, HTX. Hợp tác xã được thành lập để tổ chức sản xuất và tiếp cận thị trường cho các loại rau an toàn / rau hữu cơ của họ và cũng là để bảo tồn các loại rau bản địa.

Hiện có 13 Câu lạc bộ và 02 Hợp tác xã được thành lập tại các cộng đồng của sáu tỉnh dự án (Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Bình, Lào Cai, Ninh Bình và Yên Bái) với tổng số thành viên là 460 trong đó 343 phụ nữ (75% là nữ). (Bảng 9).

Số câu lạc bộ / hợp tác xã đang hoạt động (Xem Bảng 9 dưới đây)

2.3.9. Xây dựng Kế hoạch chiến lược của Ủy ban nhân dân xã về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp, giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV

Trong Chương trình REAL, ICERD đã và sẽ tiếp tục hợp tác với Vụ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cục Bảo vệ Thực vật – Bộ NN & PTNT, và Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh để hỗ trợ cộng đồng xây dựng Kế hoạch chiến lược xã về sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó các hoạt động về giảm thiểu rủi ro thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp đã được lồng ghép vào các kế hoạch chiến lược của địa phương.

Đến này tất cả 23 xã dự án của 6 tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái) đã có kế hoạch chiến lược.

Để xây dựng Kế hoạch chiến lược, mỗi xã tổ chức hội thảo lập kế hoạch nhằm thảo luận và đề xuất kế hoạch hành động, bao gồm xây dựng năng lực, huy động các nguồn lực để hỗ trợ sáng kiến và hợp tác nông dân. Hội thảo bao gồm nông dân, tổ chức xã hội (Hội nông dân, Hội phụ nữ, v.v.), trường học, Trung tâm học tập cộng đồng (CLC), Chính quyền xã. Tại cuộc khảo sát hội thảo (học sinh và nông dân) đã trình bày thông tin / dữ liệu thu thập được từ các cuộc khảo sát về rủi ro thuốc trừ sâu và đa dạng sinh học nông nghiệp và khuyến nghị của họ làm cơ sở để thảo luận và lập kế hoạch.

2.4. GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XUYÊN SUỐT “GIỚI, GIẢM NGHÈO, NHÂN QUYỀN”

2.4.1. Phát triển chương trình đào tạo lớp học hiện trường (FFS)

> Các chương trình tập huấn các vấn đề xuyên suốt đã được phát triển. Các chủ đề quyền con người (quyền trẻ em, quyền phụ nữ), vấn đề giới và biến đổi khí hậu và các chủ đề này đã được tích hợp trong chương trình của các FFS. FFS được áp dụng như một cách tiếp cận cơ bản trong các chương trình đào tạo của REAL và FFS là nơi để nam  và nữ cùng nhau học hỏi để nâng cao nhận thức và giải quyết các vấn đề xuyên suốt (giới tính, nghèo đói, Nhân quyền, biến đổi khí hậu).

Điều đó cho thấy FFS thúc đẩy giải pháp khuyến nông từ dưới lên, và xuất phát từ nhu cầu: FFS có cơ hội để học sinh, nông dân (phụ nữ và nam giới) cải thiện sản xuất, đa dạng hóa và mở rộng các lựa chọn của họ; làm việc cùng nhau theo nhóm để quản lý tài nguyên thiên nhiên của họ. Chu trình học tập trải nghiệm là tính năng cốt lõi của FFS. FFS đã được chứng minh rằng nó giúp người học phát triển tư duy phê phán, thái độ thử nghiệm và đổi mới.

Trong mỗi hoạt động, nông dân, học sinh (nam, nữ, già, trẻ) đều bình đẳng trong việc bày tỏ suy nghĩ và ý tưởng của mình để đóng góp vào quá trình học tập, nghiên cứu thực địa và hội thảo. Và mọi người tự tin đàm phán và trình bày với chính quyền, các tổ chức địa phương về đề xuất chương trình bền vững về bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học, và tăng cường quản lý thuốc BVTV trong cộng đồng. Ngoài ra, học sinh có mối liên kết với phụ huynh và nông dân khác để tác động đến họ về rủi ro do thuốc BVTV và giải pháp giảm thiểu rủi ro.

2.4.2. Tổ chức các FFS và hội thảo về các vấn đề xuyên suốt

2.4.2.1. Giới, Nhân quyền

FFS có cơ hội để học sinh, nông dân (phụ nữ và nam giới) cải thiện sản xuất, đa dạng hóa và mở rộng các lựa chọn của họ; làm việc cùng nhau theo nhóm để quản lý tài nguyên thiên nhiên của họ. Chu trình học tập trải nghiệm là tính năng cốt lõi của FFS. FFS đã được chứng minh rằng nó giúp người học phát triển tư duy phê phán, thái độ thử nghiệm và đổi mới.

Trong mỗi hoạt động, nông dân, học sinh (nam, nữ, già, trẻ) đều bình đẳng trong việc bày tỏ suy nghĩ và ý tưởng của mình để đóng góp vào quá trình học tập, nghiên cứu thực địa và hội thảo. Và mọi người tự tin đàm phán và trình bày với chính quyền, các tổ chức địa phương về đề xuất chương trình bền vững về bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học, và tăng cường quản lý thuốc BVTV trong cộng đồng. Ngoài ra, học sinh có mối liên kết với phụ huynh và nông dân khác để tác động đến họ về rủi ro do thuốc BVTV và giải pháp giảm thiểu rủi ro.

> Trong giai đoạn báo cáo (2013 – 2018), có 11.980 học sinh và nông dân trong đó 7,671 nữ (64% nữ) đã tham gia FFS (Xem Bảng 1a).

> Tổng số 1.405 phụ nữ và nam giới, trong đó 884 phụ nữ (63% nữ) tham gia 23 hội thảo Cộng đồng khảo sát cơ bản để phân tích Giới được tổ chức tại 23 xã dự án của 6 tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái). Hội thảo nhằm xác định tỷ lệ thích hợp của phụ nữ và nam giới tham gia vào các hoạt động của dự án trong các cộng đồng dự án. Số xã, Phụ nữ và Nam giới tham dự Hội thảo về Giới (Xem Bảng 10 bên dưới).

> Kết quả của hội thảo khảo sát cơ bản để phân tích giới tính như sau:

Về trồng trọt, ở Bắc Giang và Quảng Bình, phụ nữ tham gia nhiều hơn (Bắc Giang: 56% nữ, Quảng Bình: 53% nữ) trong khi ở tỉnh Lào Cai và Yên Bái, việc tham gia trồng trọt của nam và nữ khá giống nhau (đàn ông / phụ nữ Lào Cai: 48% và 41%, Yên Bái là: 35% và 35%). Một số hoạt động trồng trọt được cả nam và nữ thực hiện (Bắc Giang: 8%, Lào Cai: 11%, Yên Bái: 30%).

Các công việc liên quan đến chăm sóc trẻ em ở cả bốn tỉnh, chủ yếu đều do phụ nữ thực hiện: Bắc Giang (nam: 35%, nữ: 63%); Lào Cai (nam: 14%, nữ: 68%); Quảng Bình (nam: 21%, nữ: 79%); Yên Bái (nam: 18%, nữ: 72%).

Về công việc nội trợ, ở cả bốn tỉnh, chủ yếu do phụ nữ thực hiện, cụ thể là ở Bắc Giang (nam: 18%, nữ: 80%); Lào Cai (nam: 18, nữ: 78%); Quảng Bình (nam: 9%, nữ: 91%).

Một số hoạt động khác trong gia đình chủ yếu do phụ nữ thực hiện: ở Bắc Giang (nam: 33%, nữ: 58%); Lào Cai (nam: 31%, nữ: 51%); Quảng Bình (nam: 43, nữ: 57%); Yên Bái (nam: 42%, nữ: 53%). Số liệu chi tiết trong Bảng 11.

2.4.2.2: Giảm nghèo

Dự án đã nỗ lực thúc đẩy đổi mới ở địa phương, thúc đẩy nông nghiệp sinh thái và sử dụng các phương pháp lớp học hiện trường (FFS) để đào tạo nông dân sản xuất nhỏ giúp họ cải thiện bền vững năng suất nông nghiệp và an ninh lương thực trong sinh kế trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu. Những điểm nổi bất của xóa đói giảm nghèo đã đạt được như sau:

> Có 296 hộ của 4 tỉnh (Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Bình và Yên Bái) duy trì canh tác tổng hợp (Lúa-Cá-Vịt) / (Lúa-Cá).

Về nuôi cá trên ruộng lúa. Dữ liệu cho thấy: Tổng thu nhập trung bình từ sản xuất kết hợp lúa-cá/thủy sản là 7,751 đô la Mỹ so với 1,892 đô la Mỹ thu được ở loại hình chỉ sản xuất lúa. Việc sử dụng thực hành sản xuất đa dạng sinh học lúa-cá-thủy sản tích hợp dẫn đến tăng tổng thu trung bình dao động từ 211% – 551% so với chỉ sản xuất lúa gạo (Bảng 4) (Biểu đồ 2)

> Hơn 200 ha với 580 hộ ở Mỹ Thành – Mỹ Đức – Hà Nội áp dụng Không trồng khoai tây / đậu tương trong hệ thống canh tác lúa. So sánh về (chi phí sản xuất, thu nhập, lợi ích) giữa canh tác không làm đất và (thực hành truyền thống – làm đất) trong sản xuất khoai tây: Canh tác không làm đất giảm 66% chi phí lao động, giảm tổng chi phí sản xuất 22%, trong khi thu nhập tăng 21% và lợi nhuận tăng khoảng 43% (Xem Bảng 5).

> Có 3.536 hộ của 17 xã thuộc 6 tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái) (Bảng 6a) duy trì áp dụng thâm canh lúa bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu trên tổng diện tích 1.040 ha mỗi vụ.

Kết quả so với tập quán truyền thống: tăng thiên địch 27%, tăng động vật thủy sản 22%, tăng năng suất 13%, tăng hiệu quả kinh tế 15%, giảm thuốc BVTV 88%, giảm giống 57%, giảm 31% nước, giảm phân hóa học 21% so với canh tác truyền thống. (Xem Bảng 6b). Phần lớn nông dân SRI đã ngừng sử dụng thuốc hóa học.

> Hai hợp tác xã Dân tộc H ‘Mong (HTX Ta Chai và HTX Na Hối) của Lào Cai đã duy trì bảo tồn và sản xuất rau bản địa và tiếp cận thị trường. Hợp tác xã Ta Chai, gần 100 tấn rau bản địa thu được mỗi năm, số tiền tương đương khoảng 51.000 USD / năm. Hợp tác xã Na Hội đã bán gần 150 tấn rau bản địa thu được số tiền tương đương khoảng 81.000 USD / năm (Xem Bảng 7).

2.4.2.3: Ứng phó với biến đổi khí hậu

Qua lớp học hiện trường (FFS), 6.085 nông dân (4.463 phụ nữ, 73% phụ nữ) đã nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu, bao gồm các nguyên nhân liên quan đến tác động của con người đối với biến đổi khí hậu, đặc biệt là phát thải khí nhà kính từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu được biểu hiện bằng khí hậu khắc nghiệt và thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, thời tiết nóng, gió lốc) đến tăng trưởng, năng suất, gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh, giải pháp đối phó với biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

Các giải pháp kỹ thuật ứng phó với biến đổi khí hậu & giảm thiểu đã được nông dân khởi xướng và áp dụng thành công, cụ thể là:

  1. a) Canh tác không làm đất đối với khoai tây, đậu tương trong hệ thống canh tác lúa

Sáng kiến này đã được nghiên cứu và áp dụng trên 200 ha với gần 580 hộ ở Mỹ Thành – Mỹ Đức – Hà Nội từ năm 2016 (Bảng 5). Đối với mô hình canh tác này, đậu tương hoặc khoai tây được trồng luận canh với lúa: vụ Đông xuân và vụ Hè thu được trồng lúa, tiếp đến vụ thứ 3 là vụ Đông được trồng khoai tây hoặc đậu tương cùng trên diện tích đất đó. 2 vụ lúa được áp dụng nguyên tắc SRI, trong khi vụ thứ 3 là (khoai tây hoặc đậu tương) được áp dụng phương pháp canh tác không làm đất.

> Đối với lúa áp dụng SRI, ngoài việc tăng thu nhập và hiệu quả kinh tế trên diện tích ứng dụng, lượng khí thải nhà kính giảm do cải thiện thực hành quản lý nước từ giữ nước liên tục trong canh tác lúa truyền thống được thay thế bằng tưới ướt và khô xen kẽ, và do giảm sử dụng hóa chất. Áp dụng SRI, cây lúa khỏe hơn, thân cây cứng, do đó nó tăng khả năng chống chịu với lạnh, gió và sâu bệnh. Trong trường hợp thiếu nước, ruộng SRI khả năng sống sót tốt và thu hoạch cao hơn nhiều so với canh tác truyền thống. Ngoài ra, từ việc tiết kiệm được giống, nông dân có thể dự trữ nó để trồng lại cho các vùng lúa bị thiệt hại do thời tiết khắc nghiệt. So với tập quán truyền thống: ruộng SRI tăng thiên địch 27%, tăng động vật thủy sản 22%, tăng năng suất 13%, tăng hiệu quả kinh tế 15%, giảm thuốc BVTV 88%, giảm giống 57%, giảm 31% nước, giảm phân bón hóa học 21%. (Bảng 6b). Phần lớn nông dân SRI đã ngừng sử dụng hóa chất thuốc trừ sâu.

> Đối với canh tác không làm đất và phủ rơm bằng rơm trong sản xuất khoai tây / đậu tương: Việc sử dụng rơm phủ đất đã khắc phục được tình trạng đốt rơm ngoài đồng gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, sinh khối rơm phủ đất giúp phục hồi hệ sinh thái đất, giảm nhu cầu tưới nước. Việc trộn rơm / sinh khối vào đất trong canh tác không làm đất có tác dụng cô lập carbon trong đất “tức là điều tiết hệ thống lưu trữ năng lượng (ESS)”, cải thiện cấu trúc đất và đưa chất dinh dưỡng trở lại đất do vậy tăng cường độ phì và khả năng giữ nước của đất và giảm xói mòn đất “xem Bảng 5. So sánh về (chi phí sản xuất, thu nhập, lợi nhuận) giữa canh tác không làm đất và (thực hành truyền thống làm đất” trong sản xuất khoai tây ở Mỹ Thành – Mỹ Đức, Hà Nội).

  1. b) Sustainable rice intensification response to climate change

Trong hệ thống này, SRI (Hệ thống thâm canh lúa cải tiến) và Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được áp dụng và các chế phẩm sinh học được sử dụng thay thế cho hóa chất. Hiện tại có hơn 1.040 ha đất cho mỗi loại cây trồng được áp dụng hệ thống canh tác này, với 3.536 hộ gia đình từ 17 xã thuộc 6 tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái). Về hiệu quả của SRI đối với ứng phó với biến đổi khí hậu đã được nếu ở phần trên “Canh tác không làm đất đối với khoai tây, đậu tương trong hệ thống canh tác lúa”. (Xem Bảng 6a, Bảng 6b).

  1. c) Integration of vegetables-livestock production” through bio-mats and composting

Có 464 hộ của 23 xã thuộc 6 tỉnh (Bắc Giang, Hà Nội, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái) đã áp dụng sáng kiến này (Xem Bảng 3).

Đệm lót sinh học được tạo bởi một hỗn hợp các tác nhân sinh học lên men với sinh khối và dược phủ lên nền chuồng gia súc. Quá trình này làm tăng tốc độ phân hủy phân và khử mùi hôi và khí độc sinh ra. Tàn dư của đệm lót sinh học được sử dụng để làm phân ủ/hữu cơ thay cho phân bón hóa học trong sản xuất cây trồng.

2.5. Ấn phẩm (tờ rơi, áp phích)

2.5.1. Tờ rơi

Tờ rơi về Đánh giá tác động thuốc BVTV, Bảo tồn và ứng dụng đa dạng sinh học, kỹ thuật nuôi cá ruộng lúa, đã được in (7.000 bản) và được tải lên trên trang web của Bộ Giáo dục và đào tạo, và ICERD để tải miễn phí.

2.5.2. Áp phíc / Poster

Đã phát hành 12 Áp phíc, trong đó có 6 Áp phích do ICERD thực hiện để giới thiệu các hoạt động và kinh nghiệm dự án REAL. Áp phích đã được trưng bày tại hội thảo quốc gia và khu vực. Tại 6 tỉnh dự án (Bắc Giang, Hà Nội, Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Bình, Yên Bái), mỗi tỉnh đã thực hiện 01 Poster để giới thiệu các hoạt động của REAL, Áp phích đã được phát cho các Trung tâm Học tập cộng đồng (CLC).

2.5.3. Phát triền các chương trình đào tạo, tập huấn

Phát triển chương trình đào tạo để nâng cao nhận thức về quản lý thuốc BVTV, thuốc tác động sức khỏe, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học nông nghiệp. Cho đến nay, chương trình đào tạo đã được phê duyệt bởi Cục Bảo vệ thực vật – Bộ NN&PTNT, Vụ Giáo dục thường xuyên – Bộ GD & ĐT. Tài liệu đào tạo này đã được tải lên trên trang web của ICERD và của Bộ GD & ĐT, đã có 11.000 Trung tâm Học tập cộng đồng (CLC) tại khoảng 600 huyện ở tất cả 63 tỉnh và thành phố tải và sử dụng để tập huấn. Đại diện của MOET và ICERD đã báo cáo rằng tất cả 11.000 CLC đã tải xuống và sử dụng chương trình giảng dạy để đào tạo.

2.6. Xây dựng tài liệu nghiên cứu điển hình tại các điểm dự án

Có 03 nghiên cứu điển hình được phát hành, đó là:

> Phóng sự về dự án REAL tại Lào Cai phát trên VTV2, Đài truyền hình Việt Nam

> Chương trình nông nghiệp sinh thái tại Xuân An và Ngọc Sơn, Việt Nam

> Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp

2.7. Huy động nguồn nhân lực

2.7.1. Nguồn nhân lực từ các tỉnh mục tiêu hỗ trợ cho Dự án REAL

Có 94 người trong đó có 42 nữ (45%) tham gia hỗ trợ triển khai dự án REAL ở các cấp, chi tiết trong bảng 12a:

2.7.2. Các tổ chức liên quan đến dự án REAL

Có 319 tổ chức liên quan phối hợp hoặc chia sẻ kinh nghiệm: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật, Trung tâm Giáo dục Thường xuyên Tỉnh, Trung tâm Khuyến nông Tỉnh, Ủy ban Nhân dân Huyện, Phòng Giáo dục Huyện, Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện, Phòng Nông nghiệp huyện, Trung tâm khuyến nông huyện, Ủy ban nhân dân xã, Hội phụ nữ xã, Hội nông dân xã, Đoàn thanh niên xã, Trung tâm học tập cộng đồng (CLC), Trường học; Cấp quốc gia (Cục Bảo vệ thực vật – Bộ NN & PTNT, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia  – Bộ NN & PTNT, Vụ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục & Đào tạo, Cơ quan Y tế Môi trường – Bộ Y tế, Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường Quốc gia – Bộ Y tế , Trung tâm ứng dụng công nghệ môi trường tiên tiến – Đại học Nông nghiệp Việt Nam (VNUA), Đại học Thái Nguyên; Tổ chức quốc tế / NGO, CSO (Liên minh đồng ruộng Thái Lan “TFA”, Chương trình giảm thiểu rủi ro do thuốc BVTV / IPM khu vực châu Á của FAO, Liên minh học tập khuyến nông sông Mê Kông  (MELA), Liên minh học tập nông học ở Đông Nam Á (ALiSEA), Trung tâm phát triển nông thôn bền vững, Trung tâm nghiên cứu về giới, gia đình và môi trường (CGFED).

2.8. Giám sát

> Giám sát và đánh giá được thực hiẹn ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Tại Trung tâm, ICERD chịu trách nhiệm tổng thể về giám sát, ICERD báo cáo cho Cục BVTV tiến độ hàng tháng, quý và hàng năm của chương trình.

> Tại tỉnh, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật  – Sở NN & PTNT là đầu mối thu thập dữ liệu về hoạt động của FFS tại các huyện, xã và đánh giá kết quả đạt được cũng như những khó khăn và hạn chế trong quá trình thực hiện và đề nghị với ICERD. Khảo sát hàng năm và khảo sát nhanh.

> Hội thảo cải thiện chỉ số để giám sát

Hội thảo được tổ chức từ ngày 3-5/1/2017. Có 5 người tham dự hội thảo. Những người tham gia thảo luận để phát triển các chỉ số giám sát cho tất cả các hoạt động ở cấp hiện trường.

> Thăm thực địa

Nhân viên ICERD thường xuyên thăm các điểm dự án và các hội thảo được tổ chức để đánh giá và cải thiện chất lượng của các hoạt động thực địa.

Cán bộ Chi cục TT & BVTV của Bắc Giang, Yên Bái và Lào Cai (6 nhân viên) thường xuyên đến các địa điểm dự án và các hội thảo được tổ chức để đánh giá và cải thiện chất lượng của các hoạt động thực địa.

2.9. Xây dựng quan hệ đối tác với các cơ quan chính phủ để thúc đẩy đánh giá tác động thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp

> ICERD đã cộng tác với các cơ quan Nhà nước, Viện nghiên cứu, các tổ chức để hỗ trợ các tỉnh dự án phát triển chương trình cộng đồng Nông nghiệp sinh thái nông thôn vì sinh kế bao gồm Cục trồng trọt, Cục bảo vệ thực vật (PPD), Trung tâm khuyến nông quốc gia – Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Vụ Giáo dục thường xuyên, Vụ Hợp tác Quốc tế – Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cơ quan Môi trường Y tế, Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường Quốc gia – Bộ Y tế, Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ – Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm học tập cộng đồng (CLC).

Riêng năm 2018 ICERD đã phối hợp với các cơ quan của Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Y tế tổ chức các sự kiện ở cấp quốc gia như sau.

2.9.1. Sở giáo dục & Đào tạo Hà Nội phối hợp với ICERD tổ chức hội thảo kết nối hợp tác vì an toàn thực phẩm

Hội thảo nhằm thúc đẩy hợp tác kết nối: Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) – trường học – xã hội trong việc đào tạo và sử dụng các sản phẩm an toàn. Hội thảo được tổ chức vào tháng 12 27, 2018.

Hội thảo đã tạo ra diễn đàn để những người tham gia biết nhau để tìm các nhà cung cấp sản phẩm an toàn (từ CLCs) cung cấp cho các trường bán trú, cộng đồng, tìm kiếm sản phẩm thay thế đầu vào hóa học cho canh tác, chia sẻ kinh nghiệm về giảm thiểu rủi ro do thuốc BVTV, bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp gắn liền với sản xuất sản phẩm an toàn.

Có hơn 200 người tham gia bao gồm lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo – Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội, Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện của 4 huyện (Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Hoài Đức), lãnh đạo và cán bộ 88 CLC của 4 huyện. (Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Hoài Đức), các trường bán trú có bếp cho học sinh của 12/30 quận, huyện Hà Nội, các công ty cung cấp các sản phẩm sinh học cho canh tác an toàn, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội.

2.9.2. Sở giáo dục & Đào tạo Hà Nội phối hợp với ICERD tổ chức Đào tạo bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng giảng viên (R-TOT)

Học viên của khóa đào tạo gồm có cán bộ của 88 CLC của 4 huyện (Đông Anh, Sóc Sơn, Hoài Đức, Mê Linh) của Hà Nội và giáo viên của 20 trường bán trú. Mục đích khóa học là để nâng cao kiến thức về giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp, xây dựng năng lực cho CLC để tổ chức FFS về giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp. Đã tổ chức được 4 khóa (5 ngày / khóa học).

Nội dung khóa học:

> Nguyên tắc hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI)

> Thuốc trừ sâu ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường

> Bảo tồn và ứng dụng đa dạng sinh học nông nghiệp

> Ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phương pháp ủ phân.

> Các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến sản xuất rau an toàn để cải thiện dinh dưỡng và sức khỏe

> Kỹ thuật trồng trọt để tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng cường / cải thiện hệ sinh thái.

2.9.3. Sở giáo dục & Đào tạo Hà Nội phối hợp với TFA và ICERD tổ chức Hội thảo khởi động Dự án xây dựng năng lực cho Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) về giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp (ABD)

Hội thảo được tổ chức trong 2 ngày, 17 và 18/1/2018.

Hội thảo nhằm mục đích chia sẻ kinh nghiệm hỗ trợ nâng cao năng lực các Trung tâm học tập cộng đồng của Thái Lan và Việt Nam để thúc đẩy giảm thiểu mối nguy do thuốc BVTV và bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp trong khuôn khổ dự án REAL.

Hơn 200 đại biểu tham dự hội thảo, gồm có: Lãnh đạo và cán bộ Sở Giáo dục & Đào tạo Hà Nội, Phòng Giáo dục và Đào tạo 4 huyện (Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn, Hoài Đức), lãnh đạo và cán bộ 88 CLC của 4 các huyện (Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn, Hoài Đức), giáo viên của 20 trường bán trú.

2.9.4. Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường Quốc gia – Bộ Y tế phối hợp với TFA và ICERD tổ chức hội thảo dư lượng thuốc BVTV và và bộ dụng cụ kiểm tra nhanh dư lượng thuốc BVTV “Test kits” vì an toàn thực phẩm.

Workshop lasted one day on November 9, 2018.

Mục đích chia sẻ kiến thức và nỗ lực thực hiện ở Thái Lan và nâng cao năng lực của các cơ quan liên quan trong việc sử dụng bộ dụng cụ kiểm tra nhanh “Test kits” để phát hiện dư lượng thuốc BVTV trên rau quả và các hóa chất độc hại khác được sử dụng để xử lý các sản phẩm và lên kế hoạch cho các cơ quan có liên quan xem xét và lên kế hoạch thực hiện tại Việt Nam:

> Chia sẻ thông tin về sử dụng và tác động của thuốc BVTV đối với sức khỏe và môi trường ở các quốc gia trong khu vực.

> Thúc đẩy các hoạt động giám sát dư lượng thuốc BVTV ở các nước trong khu vực.

> Giới thiệu bộ dụng cụ Test kits để phát hiện nhanh dư lượng thuốc BVTV.

Nội dung hội thảo:

> Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV và tác động của thuốc ở Việt Nam.

> Kết quả nghiên cứu về tác động của thuốc BVTV đối với trẻ em trong khu vực

> Kết quả nghiên cứu về thuốc BVTV ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường ở Thái Lan.

> Bộ dụng cụ Test kits và quy trình thử nghiệm trong phòng thí nghiệm.

> Phát triển và phân phối bộ dụng cụ Test kits tại Việt Nam.

Bộ dụng cụ Test kits: Dư lượng thuốc trừ sâu trong máu (Organophosphate và Carbamate) bằng giấy phản ứng; Dư lượng thuốc BVTV trên rau và trái cây sử dụng bộ dụng cụ thử nghiệm MJPK (Organophosphate và Carbamate); Bộ dụng cụ Test kits Formin; Bộ dụng cụ Test kits kiểm tra Borax; Bộ dụng cụ Test kits kiểm tra chất làm trắng cho giá đỗ, măng và ruột bò; Bộ dụng cụ Test kits kiểm tra kháng sinh trên gà, thịt lợn, cá.

Tham dự hội thảo về phía tổ chức nước ngoài có ông Marut Jatiket, Giám đốc tổ chức Field Alliance cùng các nhà khoa học đến từ trường Trường Đại học Chiangmai, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thái Lan và đơn vị truyền thông toàn cầu, Thụy Điển. Về phía Việt nam có PGS.TS. Doãn Ngọc Hải, Viện trưởng Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường, ông Ngô Tiến Dũng, Giám đốc Trung tâm Nâng cao năng lực cộng đồng và Phát triển nông thôn (ICERD) cùng hơn 70 đại biểu đến từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục đào tạo, Cục Bảo Vệ thực vật, Viện Dinh dưỡng, Trung tâm Y tế dự phòng/ Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh/thành phố cùng các tổ chức UNESCO, CECAD, IDEA, CGFED, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam…   

2.10. Họp, Hội thảo, diễn đàn

> Từ 2013 – 2018, ICERD đã phối hợp với các tổ chức trung ương và địa phương (Bộ GD & ĐT, Ủy ban nhân dân xã) tổ chức các Cuộc họp / Hội thảo / Diễn đàn liên quan đến chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy PIA và ABD, nâng cao năng lực cho CLC.

> ICERD phối hợp với TFA tổ chức Chuyến thăm nghiên cứu về Quản lý chất thải thuốc trừ sâu cho các đại biểu từ Lào và Thái Lan và Campuchia là cán bộ chính phủ và Phi chính phủ để học hỏi kinh nghiệm từ Việt Nam để tiếp tục phát triển ở các nước Đông Nam Á. chuyến thăm từ ngày 8-9 /10/2018.

> Ngoài ra, ICERD cũng đã tham dự các sự kiện liên quan trong khu vực (các cuộc họp / hội thảo / diễn đàn) được tổ chức hàng năm.

2.11. Tham gia vận động chính sách và tăng cường quản lý thuốc BVTV

> Tổ chức đào tạo Kỹ năng về vận động được tổ chức hàng năm cho những nông dân nòng cốt.

> Nông dân tham gia vận động: Thuyết phục chính quyền xã các kết quả từ mô hình thí điểm và thí điểm từ các: Báo cáo, Hội nghị đầu bờ, Cánh đồng trình diễn của nông dân, hệ thống loa truyền thanh của thôn bản. Các nhóm nông dân đối thoại trực tiếp với chính quyền xã hoặc thông qua Hội Nông dân, Hội Phụ nữ. Hỗ trợ ủy ban nhân dân xã xây dựng kế hoạch chiến lược hoặc kế hoạch hàng năm để mở rộng các sáng kiến.

> Câu chuyện thành công được dùng làm bằng chứng để xây dựng văn bản cấp bộ: Thông tư liên tịch Bộ NN & PTNT và Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành về Hướng dẫn thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng.

> Ngân sách của chính phủ (tỉnh, xã) cũng như các tổ chức xã hội, các công ty tư nhân và cộng đồng để mở rộng các sáng kiến nông dân

> Bộ Giáo dục và Đào tạo đã sử dụng “Sổ tay đào tạo về đa dạng sinh học nông nghiệp, giảm thiểu rủi ro do thuốc BVTV” và thúc đẩy công tác đào tạo, tập huấn ở các trung tâm học tập cộng đồng.

2.12. Hỗ trợ thế hệ nông dân trẻ

Bằng cách giáo dục thanh thiếu niên thông qua các trường học, chúng tôi hy vọng sẽ hỗ trợ một thế hệ nông dân trẻ có hiểu biết và chuẩn bị, coi nông nghiệp là một nghề khả thi và quan trọng.

Học sinh nội trú được đào tạo và thực hành để nâng cao kiến thức và kỹ năng về nông nghiệp sinh thái như trồng trọt, chế biến và sử dụng cây dược liệu bản địa, sản xuất rau và trồng trọt chăn nuôi để tăng cường chu trình dinh dưỡng trong các trang trại; lựa chọn thay thế cho hóa chất (ủ phân, đệm lót sinh học, kiểm soát sinh học, sản xuất thuốc trừ sâu thảo mộc). Các sản phẩm nông nghiệp do học sinh sản xuất được cung cấp cho bữa ăn hàng ngày và phần còn lại được bán ra thị trường, và số tiền thu được được sử dụng để xây dựng quỹ học sinh.

Một số câu chuyện thành công

> Nông dân trẻ áp dụng nông nghiệp sinh thái: Từ năm 2014 Chiến & Nga đã được đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng trong bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp, hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI), nuôi trồng kết hợp lúa-cá-vịt, áp dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi, kết hợp chăn nuôi trồng trọt để tăng cường chu kỳ dinh dưỡng trong trang trại. Các lựa chọn thay thế cho đầu vào hóa học, Chiến & Nga đã quyết định chuyển đổi từ 1,2 ha độc canh lúa sang loại hình nuôi trồng kết hợp [lúa-cá-vịt] với diện tích 12 ha, cùng với 32 nông dân tham gia.

> Học sinh bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp: Trường dận tộc nội trú ở huyện Bắc Hà học sinh đã triển khai việc trồng rau & nuôi lợn với kết quả thành công. Trường học ở huyện Nghĩa-Lộ, học sinh tạo vườn dược liệu làm nơi để học học.

> Thành phố Hà Nội: Năm 2016 đào tạo cho 30 thanh niên (17 nữ), đến nay, 9 người (4 nữ và 5 nam) đã hình thành và duy trì hiệu quả sản xuất rau an toàn liên kết thị trường.

> Chín thanh niên (8 nữ, 1 nam) tham gia hai hợp tác xã do phụ nữ dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai thành lập, duy trì bảo tồn và sản xuất rau bản địa. Rau được bán qua các cửa hàng, chợ địa phương và siêu thị ở Bắc Hà, Lào-Cai, và hầu hết, thành phố Hà Nội.

3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, KHUYẾN NGHỊ

3.1. Bài học kinh nghiệm, khuyến nghị

Chương trình cộng đồng nông nghiệp sinh thái cần huy động các nguồn, ngành khác nhau:

> Tăng cường quản lý thuốc BVTV và phát triển thay thế cho đầu vào hóa học

> Hệ thống canh tác kết hợp để tăng cường tương tác giữa các loại cây trồng, giữa cây trồng và vật nuôi / động vật,

> Chất thải sinh hoạt như chất tẩy rửa, xà phòng và chất thải động vật … chúng cũng gây hại cho hệ sinh thái nông nghiệp

> Giống phù hợp

> Áp dụng cách tiếp cận cảnh quan

> Liên kết với thị trường

> Nông dân, học sinh và các tổ chức địa phương làm việc cùng nhau

> Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững

> Xem xét lại việc thực hiện Thông tư liên kết 05 để cải thiện việc thực thi.

> Ở cấp độ trang trại, cần có nhiều nỗ lực hơn để tăng cường quản lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng và áp dụng các biện pháp canh tác bền vững để giảm sử dụng thuốc BVTV.

> Có quy định các công ty thuốc BVTV phải trả phí cho việc xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng

3.2. Khuyến nghị 

> Thí điểm và đánh giá các mô hình nông nghiệp sinh thái, tài liệu hóa, thông tin & phổ biến, đề xuất hỗ trợ chính sách để thúc đẩy.