Hồ sơ quốc gia việt nam

Thành tựu – Hướng dẫn số 2027 / QĐ-BNN của Bộ NN & PTNT ngày 2 tháng 6 năm 2015 về việc thúc đẩy áp dụng IPM, giai đoạn 2015-2015. – Ngành thủy lợi năm 2014 – Bộ NN & PTNT đã ban hành kế hoạch vào năm 2020 với mục tiêu 30% canh tác lúa được tưới tiêu để áp dụng SRI và các phương pháp thân thiện với môi trường khác; – Quyết định của Bộ NN & PTNT năm 2016 về tầm nhìn tái cơ cấu ngành lúa gạo nhằm tăng hiệu quả sản xuất và thương mại lúa gạo (trong đó mục tiêu cho FFS: Đến năm 2030, trên 90% diện tích phải thuộc IPM); – Quyết định của Bộ NN & PTNT năm 2016 về việc thúc đẩy áp dụng các biện pháp sinh học trên bọ dừa, giai đoạn 2017-2020 “; – Quyết định của PPD năm 2018 cũng đưa ra các tiêu chuẩn và phương thức cho FFS và TOT; – Phân bổ ngân sách từ chính phủ (cấp trung ương và địa phương) là CSO, tư nhân
các công ty và cộng đồng để hỗ trợ FFS; – Hợp tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo để thúc đẩy FFS thông qua các trung tâm học tập cộng đồng và trường trung học ở nông thôn; – Nông dân tạo ra các sáng kiến ​​như: tăng cường cây trồng bền vững – ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu, … Đồng thời nông dân cũng là nguồn lực để mở rộng các sáng kiến ​​này thông qua FFS. Tiến trình – Với sự hỗ trợ của FAO, FFS đã giới thiệu đến Việt Nam từ năm 1992 thông qua Chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp – IPM. FFS nhằm mục đích nâng cao kiến ​​thức và kỹ năng của nông dân quy mô nhỏ cho phép họ đưa ra quyết định sáng suốt hơn trong việc quản lý hệ thống sản xuất cây trồng của mình, điều này sẽ dẫn đến sản xuất bền vững hơn và lợi ích cấp độ trang trại cao hơn bao gồm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường. – Ở cấp quốc gia, Cục Bảo vệ Thực vật – Bộ NN & PTNT chịu trách nhiệm điều phối chung việc thực hiện Chương trình. FFS đã được thực hiện ở tất cả 63 tỉnh. Ở cấp tỉnh, các Chi cục Bảo vệ Thực vật (PPSD) chịu trách nhiệm quản lý chương trình và thực hiện các FFS và các hoạt động tiếp theo. Ở mỗi tỉnh, có một đội ngũ giảng viên FFS đóng vai trò trung tâm. Ở cấp xã, FFS alumna (đặc biệt là phụ nữ) là lực lượng nòng cốt để huy động các hoạt động đào tạo IPM và phổ biến IPM trong xã của họ. Sự hỗ trợ của chính quyền xã và sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự (CSO) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững IPM ở các xã. Hơn nữa alumna FFS cũng trình bày các sáng kiến ​​của họ trong “Ngày thực địa” do họ tổ chức để thuyết phục các nhà hoạch định chính sách của tỉnh cũng như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) để hỗ trợ chính sách cho nhiều nông dân ở các tỉnh khác học hỏi và áp dụng. – Từ năm 2007, Chương trình IPM quốc gia đã phát triển định hướng chiến lược cho các hoạt động của mình về “Nâng cao năng lực về giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu” để tăng cường hỗ trợ cho việc thực hiện các chương trình quốc gia về an ninh lương thực, an toàn thực phẩm và biến đổi khí hậu. FFS alumna đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các sáng kiến ​​(thâm canh cây trồng bền vững – ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu, v.v.) Một trong những điểm nổi bật là FFS alumna tích cực tham gia thí điểm các chương trình Giáo dục Cộng đồng về Giảm thiểu Rủi ro Thuốc trừ sâu. Mô hình này cung cấp đầu vào để phát triển các tiêu chuẩn cho xã Nong Nong thon moi (phát triển nông thôn mới) như là một phần của Chương trình Thủ tướng Chính phủ về nông nghiệp, nông dân và phát triển nông thôn (Tam nong). – Từ năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thúc đẩy FFS thông qua Trung tâm Học tập Cộng đồng (CLC) và trường trung học ở khu vực nông thôn để giáo dục học sinh nông dân về giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu và bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp.-Năm 2015, Bộ NN & PTNT đã ban hành Đề án “Thúc đẩy ứng dụng quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trong giai đoạn cây trồng từ 2015 đến 2020” để góp phần thực hiện Đề án của Thủ tướng về “tái cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng tăng giá trị gia tăng và phát triển bền vững. ” – Phương pháp FFS cơ bản đã được áp dụng trong các chủ đề đào tạo khác nhau nhằm xây dựng kiến ​​thức và kỹ năng cho nông dân và sinh viên, như: IPM trên cây trồng, giảm rủi ro thuốc trừ sâu, bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học nông nghiệp, đánh giá tác động của thuốc trừ sâu, Vườn thảo mộc và dinh dưỡng của hộ gia đình và sức khỏe, Rau GAP, sản xuất phân bón sinh học (Phân bón / Bio Bio), Hỗ trợ nông dân sản xuất và tiếp cận thị trường gạo an toàn và chất lượng cao, rau quả Bằng chứng tiến bộ – Từ năm 1992 đến 2017, đã có 3.279 kỹ thuật viên của PPSD được đào tạo để trở thành giảng viên FFS, và 5,855 nông dân đã được đào tạo để trở thành giảng viên Nông dân; 1.249.450 nông dân và học sinh (53% nữ) đã được đào tạo thông qua IPM FFS. – Để thực hiện Quyết định của Bộ NN & PTNT năm 2015 về “Thúc đẩy áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trong giai đoạn từ 2015 đến 2020”, kể từ năm 2015, tất cả 63 tỉnh trong cả nước đều có kế hoạch mở rộng FFS hàng năm. Ở cấp trung ương, chính phủ phân bổ ngân sách cho IPM FFS thông qua các dự án cho vay của Ngân hàng Thế giới (WB6, WB7). – Với sự hỗ trợ của CSO khu vực Liên minh thực địa / Tổ chức giáo dục Thái Lan, Trung tâm sáng kiến ​​nâng cao năng lực cộng đồng và phát triển nông thôn (ICERD) đã phối hợp với Bộ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD & ĐT) và Cục Bảo vệ Thực vật (PPD) ) – Bộ NN & PTNT xây dựng chương trình giảng dạy FFS về đa dạng sinh học nông nghiệp và giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu (PRR) để được tích hợp trong chương trình giảng dạy của Trung tâm học tập cộng đồng huyện (CLC) và trường trung học ở khu vực nông thôn. Trong năm 2017, gần 11.000 Trung tâm Học tập Cộng đồng tại xã (Xã CLC) và hơn 600 Trung tâm Học tập Tiếp tục Huyện (CLC) sử dụng tài liệu. Số lượng nông dân, học sinh tham gia học tập trong các tài liệu trên là khoảng hơn 18 triệu thông qua CLC xã và hơn 200 nghìn học sinh học tại CLC huyện. – Năm 2014, ngành Thủy lợi – Bộ NN & PTNT đã ban hành kế hoạch vào năm 2020 với mục tiêu 30% canh tác lúa được tưới tiêu để áp dụng SRI và các phương pháp thân thiện với môi trường khác; Năm 2016, Bộ NN & PTNT đã ban hành Quyết định về tầm nhìn tái cơ cấu ngành lúa gạo nhằm tăng hiệu quả sản xuất và thương mại lúa gạo (trong đó mục tiêu cho FFS: Đến năm 2030, trên 90% diện tích phải thuộc IPM); và năm 2016, Bộ NN & PTNT đã đưa ra Quyết định về việc thúc đẩy áp dụng các biện pháp sinh học đối với bọ dừa, giai đoạn 2017-2020 “; năm 2018, Quyết định PPD phác thảo các tiêu chuẩn và phương thức cho FFS và TOT.

1992 1992 -1998 1996 1998 2007 – 2016 2015FFS lần đầu tiên được giới thiệu Giao lưu giảng viên (TOT) Ban hành chiến lược quốc gia về quảng bá IPM FFS; Mục tiêu: FFS bao phủ 90% xã trồng lúa đang thúc đẩy tăng cường mạng lưới cộng đồng để duy trì xây dựng IPM FFSCapacity về giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu để hỗ trợ các chương trình quốc gia (an toàn thực phẩm, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu) Hướng dẫn số 2027 / QĐ-BNN áp dụng IPM, giai đoạn từ 2015 đến 2020. đến năm 2017 Ngân sách chính phủ cho FFS0 10% 10% 15% 40 – 95%

Đóng góp alumna của FFS để đổi mới – Làm đất tối thiểu và phủ rơm rạ trong sản xuất khoai tây: Sản xuất khoai tây có thể mang lại thu nhập cao gấp đôi so với sản xuất lúa. Tuy nhiên, nó đòi hỏi đầu tư nhiều hơn vào việc chuẩn bị và thu hoạch đất. Nông dân FFS đã phát triển các biện pháp làm đất tối thiểu kết hợp với việc sử dụng rơm rạ có thể mang lại hiệu quả cao như tăng năng suất: 8-25%, tăng thu nhập: 19-31%; giảm lao động: 28-47%; giảm sử dụng nước tưới: 25 – 67% và giảm thuốc trừ sâu: 75%. Áp dụng sản xuất khoai tây làm đất tối thiểu sẽ cho phép phụ nữ ở miền Bắc trồng khoai tây trở lại trên đất lúa để họ có thể thu hoạch ba vụ mỗi vụ (Lúa – Lúa – Khoai tây) thay vì chỉ trồng hai vụ lúa mỗi năm như hiện nay. Hơn nữa, việc sử dụng rơm rạ để ủ có thể khắc phục tình trạng cháy rơm gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, sinh khối của rơm lúa được sử dụng để phủ sẽ phục hồi hệ sinh thái đất trồng lúa. Vào năm 2013, Bộ NN & PTNT đã ban hành Quyết định số 204 / QĐ-TT-CLT công nhận IPM khoai tây không làm đất kết hợp với mùn rơm “như một tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp của người Hồi giáo hướng dẫn tất cả các tỉnh trồng khoai tây áp dụng thực tiễn. Một khoản tài trợ hàng năm để tổ chức tập huấn cho nông dân áp dụng. Trong vụ đông năm 2014, việc thực hành canh tác tối thiểu trên khoai tây đã được hơn 4.500 nông dân (70% phụ nữ) áp dụng – Mô hình về giáo dục cộng đồng trên mạng về giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu và phát triển an toàn địa phương Chương trình rau và tiếp cận thị trường. Mô hình này nhằm thể hiện sự hợp tác giữa và giữa các GO, tổ chức phi chính phủ cũng như các nhóm và mạng lưới nông dân IPM nắm giữ nhỏ để giải quyết các rủi ro về thuốc trừ sâu và các vấn đề liên quan cùng nhau, phát triển sản xuất rau an toàn tại địa phương (tuân thủ với GAP) và tạo điều kiện tiếp cận thị trường cho các sản phẩm của nông dân như một cộng đồng.- Cựu sinh viên FFS nghiên cứu các lựa chọn thay thế cho thuốc trừ sâu hóa học, ví dụ, kiểm soát sinh học như động vật ăn thịt và parasitoids, với sự hỗ trợ từ các nhà nghiên cứu và giảng viên IPM. Mục đích của hoạt động là phát triển năng lực của các nhóm nông dân để có thể nuôi và sản xuất hàng loạt các sản phẩm thay thế cho thuốc trừ sâu ở cấp cộng đồng để sản xuất cây trồng bền vững. Liên kết nuôi dưỡng với thí nghiệm kiểm soát dịch hại trên đồng ruộng đã thuyết phục nông dân về quản lý dịch hại bền vững và khuyến khích nhiều nông dân duy trì tự sản xuất các tác nhân sinh học và giúp các nông dân khác áp dụng. Trong năm 2015, đã có 23 nhóm alumna FFS ở đồng bằng sông Cửu Long duy trì mầm bệnh Metherizum nuôi dưỡng hàng loạt bằng chính nguồn lực của họ và áp dụng để kiểm soát BPH. – Chương trình sử dụng và bảo tồn đa dạng sinh học châu Á (BUCAP) đã điều chỉnh cách tiếp cận IPM FFS như một phương pháp nghiên cứu và mở rộng để thúc đẩy quản lý tài nguyên di truyền thực vật. FFS alumna bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nông nghiệp địa phương và phát triển các giống lúa mới như là một phần của các chương trình nhân giống cộng đồng có sự tham gia. 5.150 gạo FFS alumna của 200 xã của 13 tỉnh trên khắp Việt Nam đã tham gia và duy trì các hoạt động của họ mà không cần quỹ dự án. Việc FFS thực hiện hiệu quả việc bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học của FFS đã cung cấp đầu vào quan trọng cho việc xây dựng Quyết định của Bộ NN & PTNT số: 35 ngày 15 tháng 1 năm 2008 / QĐ-BNN về Quy định về sản xuất giống cây trồng tại trang trại. – Hệ thống thâm canh lúa gạo (SRI): Các giảng viên IPM và IPM FFS alumna làm việc cùng nhau để phát triển sáng kiến ​​SRI để khắc phục các vấn đề sản xuất lúa hiện có, cụ thể là lạm dụng phân bón hóa học (đặc biệt là nitơ) và thiếu hạt giống chất lượng tốt. Ứng dụng cao của nitơ và mật độ cấy cao là hai trong số những lý do chính khiến cây lúa dễ bị sâu bệnh, dẫn đến sản lượng và lợi nhuận thấp hơn. SRI giúp nông dân tiết kiệm hạt giống và phân bón đầu vào mà không bị phạt năng suất. Áp dụng SRI cũng làm cho cây lúa chịu được thời tiết khắc nghiệt và sâu bệnh. Năm 2007, Bộ NN & PTNT đã ban hành quyết định số 3062 / QĐ-BNN-KHCN ngày 15 tháng 10 năm 2007 về việc công nhận SRI là công nghệ tiên tiến và hướng dẫn quảng bá ứng dụng SRI ở tất cả các tỉnh phía Bắc. Kể từ đó, 29 tỉnh có kinh phí hàng năm để tổ chức đào tạo cho nông dân áp dụng. Năm 2014, có 1.813.201 nông dân của 29 tỉnh áp dụng SRI, với 394.894 ha.- Vườn rau tại nhà: Các hoạt động đào tạo FFS liên quan đến hiểu biết về dinh dưỡng của rau bản địa, cây thuốc cổ truyền và an toàn thực phẩm (nguy cơ thuốc trừ sâu) đã khuyến khích nông dân quan tâm hơn đến việc trồng rau trong vườn nhà bằng canh tác hữu cơ, nhưng cũng có thể là cơ hội để tiếp cận thị trường sau đó. Kể từ năm 2014, tổng số 382 nông dân (82% phụ nữ) của ba tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai và Quảng Bình, Yên Bái) duy trì “vườn rau nhà” bằng nguồn lực của mình. Hoạt động này thực sự giúp phụ nữ tạo ra các sản phẩm an toàn thực phẩm, dinh dưỡng đa dạng cho chế độ ăn uống hàng ngày của gia đình, mặt khác cũng góp phần tiết kiệm tiền mua rau. – Ứng phó với biến đổi khí hậu: Để nâng cao kiến ​​thức và kỹ năng của nông dân về ứng phó với biến đổi khí hậu, có một số bài tập về chủ đề này được tích hợp trong các cơ sở đào tạo khác cho giảng viên và nông dân (Đào tạo huấn luyện viên TOT TOT TOT), đào tạo về ABD, PRR, đào tạo cho nông dân bảo tồn động vật thủy sản (Cá, tôm). Sự thay đổi khí hậu cũng được thảo luận trong các cuộc họp của Câu lạc bộ Phụ nữ. Nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu cũng bao gồm tạo điều kiện cho nông dân thảo luận về các biện pháp giảm thiểu và ứng phó với biến đổi khí hậu. Kết thúc đào tạo, một kế hoạch giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trong các loại cây thâm canh, đặc biệt là lúa đã được phát triển bởi các bên liên quan của nông dân và địa phương. – Bảo tồn cá / tôm và động vật thủy sản trên ruộng lúa: Ở một số vùng trồng lúa (Bắc Giang, Quảng Bình, Yên Bái, tỉnh Ninh Bình), những năm gần đây ở đây ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt, lúa bị ngập lụt và mất mát. từ 30 đến 100% sản lượng lúa / mỗi mùa đông – vụ xuân ở những vùng bị ngập lụt. Các FFS được tổ chức để giúp nông dân ở các xã này chuyển đổi từ lúa cá sang lúa – cá, do đó, khi lúa bị mất do lũ lụt, nông dân vẫn có thu nhập từ cá, do đó, vẫn đảm bảo cải thiện cuộc sống gia đình. Tổng thu nhập trung bình từ sản xuất thủy sản tổng hợp lúa-cá là 7,751 đô la Mỹ so với 1,892 đô la Mỹ thu được từ việc chỉ sản xuất lúa gạo. Sử dụng thực hành sản xuất đa dạng sinh học lúa-cá-thủy sản tích hợp dẫn đến thu nhập gộp trung bình dao động từ 211% -551% so với chỉ sản xuất lúa gạo .. Nhiều vùng sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long có môi trường thuận lợi cho động vật thủy sản (tôm và cua ) để phát triển trên các cánh đồng lúa, nhưng trong những năm qua, việc lạm dụng thuốc trừ sâu đã trở nên phổ biến, nó phá hủy môi trường sống của các loài này. FAO đã hỗ trợ nông dân nâng cao nhận thức và kỹ năng về giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu / IPM, trồng trọt. Do đó, nông dân đã duy trì hội nhập bền vững “nuôi động vật” (tôm, cua), mang lại hiệu quả cao. Cho đến nay, khoảng 800 alumna đang duy trì canh tác tổng hợp (Gạo-Cá / Gạo-Tôm / Gạo-Cá-Vịt).- Sản xuất phân bón hữu cơ từ phần còn lại của Bio Bio-mat: Nhiều gia đình trang trại vẫn duy trì một thực hành tốt, đó là nuôi lợn và gà để phục vụ nhu cầu dinh dưỡng cho gia đình và bán, trâu để cày bừa. Tuy nhiên, do khuôn viên hẹp của khu vườn của ngôi nhà, vì vậy nơi chăn nuôi thường nằm liền kề với cư dân, tình trạng này gây ra mùi hôi thối. Để hạn chế mùi hôi, nhiều gia đình đã đầu tư vào sàn xi măng để tạo điều kiện cho nước rửa, nước rửa lồng được đổ vào hố thoát nước trong làng, gây ra mùi hôi thối và ô nhiễm môi trường nông thôn. FFS được tổ chức để giúp phụ nữ nâng cao kiến ​​thức về môi trường và kỹ năng nuôi lợn và gà trên thảm sinh học nhằm giảm ô nhiễm môi trường do quá trình sản xuất và tận dụng nguồn phân bón hữu cơ để sản xuất cây trồng bền vững, vì lạm dụng quá mức. phân bón hóa học, đặc biệt là nitơ trong canh tác cây trồng đang gây ra dịch bệnh và dịch bệnh và ảnh hưởng đến môi trường cũng như làm tăng các đầu vào không cần thiết. Kể từ năm 2014, tổng số 403 hộ nông dân của bốn tỉnh (Bắc Giang, Lào Cai và Quảng Bình, Yên Bái) duy trì nguồn lực của mình để sản xuất phân bón hữu cơ từ dư lượng của Bio Bio-thảm. – Với sự hỗ trợ của CSO khu vực Liên minh thực địa / Tổ chức giáo dục Thái Lan, kể từ năm 2012, Trung tâm sáng kiến ​​nâng cao năng lực cộng đồng và phát triển nông thôn (ICERD) đã được thành lập với Bộ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ Giáo dục) Cục Bảo vệ (PPD) – Bộ NN & PTNT hỗ trợ Trung tâm Học tập Cộng đồng (CLC) và Trường Trung học ở khu vực nông thôn để tổ chức mô hình thí điểm đào tạo cho nông dân và học sinh về đánh giá tác động của thuốc trừ sâu sinh học và nông nghiệp (PIA). Tính đến năm 2017, tổng số 22 CLC và 22 trường THCS từ 6 tỉnh (Lào Cai, Ninh Bình và Yên Bái, Bắc Giang, Hà Nội và Quảng Bình) tham gia chương trình .. Trong suốt 5 năm (2013 – 2017) tổng số 4.787 sinh viên (56% nữ) và 5.078 nông dân (75% nữ) được đào tạo bằng nguồn huy động vốn .. Phát triển chương trình đào tạo
– Chương trình giảng dạy FFS đã được phát triển và cải thiện kịp thời bởi các giảng viên và nông dân để đáp ứng sự đổi mới của các chương trình đào tạo nông dân. Trong thời gian từ 1992 đến 2015, có 35 hướng dẫn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật được phát triển để hỗ trợ chương trình đào tạo FFS. Năm 2015 ICERD phối hợp ICERD địa phương với Bộ Giáo dục thường xuyên – Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD & ĐT) và Cục Bảo vệ Thực vật (PPD) – Bộ NN & PTNT xuất bản Hướng dẫn giảng dạy về đánh giá tác động đa dạng sinh học và thuốc trừ sâu (PIA) để được tích hợp trong chương trình giảng dạy của Trung tâm học tập cộng đồng (CLC) trên toàn quốc. Giám sát – Giám sát và đánh giá đã được tiến hành ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Tại Trung tâm, Cục Bảo vệ Thực vật (PPD) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN & PTNT) chịu trách nhiệm giám sát chung, PPD đã báo cáo cho Bộ mỗi tuần, tháng, quý và hàng năm của các chương trình FFS. – Tại tỉnh, Chi cục Bảo vệ Thực vật (PPSD) – Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Sở NN & PTNT) làm đầu mối thu thập dữ liệu về hoạt động của FFS tại các huyện, xã và đánh giá kết quả đạt được cũng như những khó khăn và hạn chế trong quá trình thực hiện và đề xuất với PPD. Khảo sát hàng năm (toàn quốc), theo dõi ảnh chụp nhanh. Thách thức / hạn chế – Ở cấp địa phương, thường thì ủy ban nhân dân ở cấp xã không hiểu rõ về khung quản lý thuốc trừ sâu và không thể hành động đầy đủ để đảm bảo tuân thủ các quy tắc và quy định – Yêu cầu nhiều giảng viên FFS hơn, trong khi nhiều giảng viên FFS có kinh nghiệm nghỉ hưu hoặc chuyển vị trí. – FFS sẽ được tổ chức nhiều hơn và làm thế nào để đảm bảo chất lượng. – Các trung tâm dịch vụ kỹ thuật được thành lập ở cấp huyện kết hợp (Khuyến nông, sản xuất cây trồng & bảo vệ thực vật, kiểm soát chất lượng và dịch vụ thú y), với bối cảnh này CP & PPSD không còn tồn tại nhân viên huyện để thực hiện FFS. – Đàn ông và thanh niên đang tìm việc làm trong các lĩnh vực khác, chủ yếu là phụ nữ già chăm sóc các trang trại nhỏ. Họ có những hạn chế về thời gian để tham gia các khóa đào tạo. – Thuyết phục công nhận và tiếp thu phương pháp FFS vào dòng chính của chiến lược mở rộng như là nền tảng để huy động bền vững các nguồn lực để quảng bá chương trình FFS. Bài học tìm hiểu FFS để xây dựng các nhóm nông dân nòng cốt ở cấp xã. Nông dân chủ chốt giúp chính quyền địa phương tiến hành thí nghiệm thực địa và thí điểm các mô hình sản xuất bền vững, và họ cũng là lực lượng mở rộng để mở rộng ứng dụng kết quả mô hình trong cộng đồng. Nông dân chủ chốt cũng tham gia vào việc vận động chính sách.
FFS xây dựng năng lực và khuyến khích nông dân tham gia thử nghiệm thực địa, sau đó huy động cộng đồng để áp dụng ở quy mô lớn hơn, sau đó ủng hộ chính sách hỗ trợ. Huy động cộng đồng thí điểm các mô hình: Chương trình giáo dục cộng đồng về giảm thiểu rủi ro thuốc trừ sâu (PRR), tăng cường bền vững. Mô hình nhằm mục đích thể hiện sự hợp tác giữa GO và NGO, các nhóm địa phương và mạng lưới nông dân IPM nắm giữ nhỏ để giải quyết PRR, để tạo điều kiện tiếp cận thị trường cho các sản phẩm của nông dân và hỗ trợ Chính phủ thực thi các quy định bao gồm tăng cường quản lý thuốc trừ sâu ở cấp xã, đặc biệt là liên quan đến an toàn thực phẩm trong sản xuất cây trồng. Liên kết với các cơ quan truyền thông để thông báo và phổ biến các kinh nghiệm kết quả từ nông dân. Tạo điều kiện cho các công ty liên kết và nông dân trong sản xuất theo các tiêu chuẩn và tiếp cận thị trường. Các ưu tiên cho việc thể chế hóa FFS trong năm tới: – Phát triển nguồn lực giảng viên FFS. – Chia sẻ thêm bằng chứng về thực hành cải tiến và hệ thống canh tác tích hợp tốt hơn ở cấp trường. – Chiến lược FFS cấp tỉnh hoàn thành để thúc đẩy thâm canh cây trồng bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Lâu dài: – Giảm sử dụng thuốc trừ sâu, nâng cao năng lực thích ứng, cải thiện thu nhập của nông dân trên toàn quốc. Trong 2-3 năm tới: – Phát triển tài nguyên giảng viên FFS. – Thúc đẩy sản xuất hữu cơ. – Thúc đẩy nông nghiệp sinh thái. e – Đưa tuổi trẻ vào Nông nghiệp. – Chia sẻ thêm bằng chứng về thực hành cải tiến và hệ thống canh tác tích hợp tốt hơn ở cấp trường. – Tham gia với các bên liên quan khác để phát triển các chiến lược có thể giúp thay đổi ở cấp trường.